Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC tại dienchau2.edu.vn Quyết định 111/QĐ-VKSTC Mới đây, Viện Kiểm sát Nhân dân tối ca đã đưa ra quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi …

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC tại dienchau2.edu.vn

Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Mới đây, Viện Kiểm sát Nhân dân tối ca đã đưa ra quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi tố, dò hỏi trong Quyết định 111/QĐ-VKSTC vào ngày 17/04/2020. Hiệu lực của văn bản pháp luật này sẽ có hiệu lực tính từ lúc ngàu được ban hành. Sau đầy, Trường THPT Diễn Châu 2 xin mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định này.

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
——-

Số: 111/QĐ-VKSTC

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2020

QUYẾT ĐỊNH 111/QĐ-VKSTC

VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ

———

VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;

Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Xét yêu cầu của Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án an ninh và Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân vô thượng,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định.

Điều 3. Thủ trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các ngành chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận:
Như Điều 3;
– Lãnh đạo VKSND vô thượng;
– Lưu: VT, V1, V14.

VIỆN TRƯỞNG




Lê Minh Trí

QUY CHẾ

CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng)

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Quy chế này quy định các hoạt động sau đây:

1. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục nguồn tin về tội phạm do người phạm tội tự thú hoặc những thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng trực tiếp phát hiện cũng được thực hiện theo quy định của Quy chế này;

2. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố;

3. Thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi;

4. Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời đoạn truy tố.

Điều 2. Nhân vật vận dụng

1. Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

2. Người có thẩm quyền thực hiện tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

3. Cơ quan, tổ chức, tư nhân khác có liên quan tới công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 3. Mục tiêu công việc

1. Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, dò hỏi và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ko để lọt tội phạm và người phạm tội, ko làm oan người vô tội.

2. Ko để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mệnh, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và phẩm chất một cách trái pháp luật.

3. Việc khởi tố, dò hỏi, truy tố phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chuẩn xác, đúng pháp luật; những vi phi pháp luật trong quá trình khởi tố, dò hỏi, truy tố phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh.

Điều 4. Từ ngữ sử dụng trong Quy chế

1. “Viện kiểm sát” gồm Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự.

2. “Lãnh đạo Viện” gồm Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công hoặc ủy quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

3. “Lãnh đạo đơn vị” gồm Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng các vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử sơ thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự trung ương, Trưởng ban, Phó Trưởng ban đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

4. “Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Cơ quan dò hỏi, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

5. “Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

6. “Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

7. “Cán bộ dò hỏi” gồm Cán bộ dò hỏi của Cơ quan dò hỏi, Cán bộ dò hỏi của cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

Điều 5. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định tại các điều 41, 42, 43, quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật khác có liên quan trong việc khởi tố, dò hỏi, truy tố.

2. Lúc được phân công thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc, Kiểm sát viên, Rà soát viên có trách nhiệm quản lý hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát. Lúc báo cáo đề xuất các vấn đề thuộc công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,dò hỏi và truy tố với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải báo cáo trung thực, khách quan, chuẩn xác, đầy đủ nội dung vụ án, vụ việc, tiến độ khắc phục và đề xuất ý kiến xử lý bằng văn bản.

3. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có trách nhiệm quản lý, lãnh đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; xem xét, quyết định các vấn đề liên quan tới việc khắc phục vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật, Quy chế này và các quy định khác có liên quan.

Sau lúc nghe Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất khắc phục vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ghi rõ ý kiến lãnh đạo vào văn bản đề xuất của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết thì trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, rà soát chứng cứ trong hồ sơ hoặc trực tiếp thực hiện một số hoạt động khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, hoạt động dò hỏi trước lúc cho ý kiến lãnh đạo. Văn bản đề xuất phải ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trong quá trình khắc phục vụ án, vụ việc, nếu có ý kiến không giống nhau giữa các Kiểm sát viên hoặc giữa Kiểm sát viên với Phó Viện trưởng, Viện trưởng thì thực hiện theo quy định tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trường hợp có ý kiến không giống nhau giữa Kiểm sát viên thụ lý chính với lãnh đạo đơn vị thì phải thực hiện ý kiến của lãnh đạo đơn vị, nhưng có quyền báo cáo với Phó Viện trưởng phụ trách; nếu có ý kiến không giống nhau giữa lãnh đạo đơn vị với Phó Viện trưởng thì phải thực hiện ý kiến của Phó Viện trưởng, nhưng có quyền báo cáo với Viện trưởng. Kết luận của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được ghi vào báo cáo của đơn vị và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trường hợp vụ án, vụ việc phức tạp, có khó khăn, vướng mắc trong quá trình khắc phục, Viện trưởng có thể đưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Ủy ban kiểm sát thảo luận trước lúc kết luận. Đối với vụ án, vụ việc Viện kiểm sát cấp dưới thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị thực hiện theo quy định của Ngành.

4. Lúc phát hiện có sơ sót về nghiệp vụ hoặc vi phi pháp luật thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải có giải pháp khắc phục ngay và tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xử lý trách nhiệm người vi phạm theo quy định của pháp luật.

Điều 6. Việc ban hành văn bản tố tụng của Viện kiểm sát trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên ban hành văn bản tố tụng trong các thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình.

3. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công phụ trách lĩnh vực công việc hoặc ủy quyền có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình trừ văn bản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và văn bản về khắc phục khiếu nại, tố cáo đối với hành vi, quyết định của mình.

4. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố có quyền ký các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với vụ án, vụ việc phức tạp, có ý kiến không giống nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng hoặc trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất xin ý kiến lãnh đạo của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ký văn bản tố tụng.

5. Sau lúc quyết định việc ban hành các văn bản tố tụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng hoặc Kiểm sát viên cao cấp là Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án hình sự ký thừa lệnh đối với văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của mình, trừ văn bản quy định tại các điểm b, d và đ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và Cáo trạng. Trường hợp đặc trưng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng có thể phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ký Cáo trạng.

Trường hợp Vụ trưởng vắng mặt nhưng mà phát sinh văn bản cần ký ngay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng xem xét, quyết định phân công Kiểm sát viên cao cấp là Phó Vụ trưởng được giao phụ trách việc khắc phục vụ án, vụ việc ký quyết định tố tụng đối với vụ án, vụ việc đó.

Các văn bản tố tụng Kiểm sát viên được phân công ký thừa lệnh Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng thực hiện theo Phụ lục A ban hành kèm theo Quy chế này. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ký các văn bản được phân công; sau lúc ký văn bản, Kiểm sát viên phải gửi cho lãnh đạo Viện để theo dõi, lãnh đạo. Lúc ký các văn bản tố tụng được phân công, Kiểm sát viên phải ghi thừa lệnh Viện trưởng, cụ thể như sau:

TL.VIỆN TRƯỞNG

KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

(hoặc KIỂM SÁT VIÊN CAO CẤP)

Chữ ký

(Ghi rõ họ và tên)

Điều 7. Phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được thông báo bằng văn bản về việc tiếp thu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khắc phục vụ án, vụ việc. Tùy theo tính chất của vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có thể phân công một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng khắc phục vụ án, vụ việc.

Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án, vụ việc thì Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản thông báo gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

2. Trường hợp vụ án, vụ việc có nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng tham gia khắc phục thì trong quyết định phân công phải ghi rõ phân công Kiểm sát viên thụ lý chính. Tại Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên cao cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên trung cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên sơ cấp trở lên.

Kiểm sát viên thụ lý chính có trách nhiệm xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi, truy tố, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng Kiểm sát viên, Rà soát viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về việc khắc phục vụ án, vụ việc.

3. Trường hợp vụ án, vụ việc có cả Kiểm sát viên và Rà soát viên tham gia khắc phục thì Rà soát viên giúp việc cho Kiểm sát viên và tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên. Các Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công và chịu sự lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên thụ lý chính. Kiểm sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn.

Điều 8. Thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát

1. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được kiến nghị của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc yêu cầu của người tham gia tố tụng về việc xem xét thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy có căn cứ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy ko có căn cứ thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do.

Nếu Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện trưởng phân công Phó Viện trưởng khác hoặc Viện trưởng trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án; đồng thời, thông báo bằng văn bản việc thay đổi đó cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi).

Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định phân công một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nơi Viện trưởng bị thay đổi thực hiện tố tụng đối với vụ án và thông báo bằng văn bản cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi); trường hợp Viện trưởng và Phó Viện trưởng đều thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện kiểm sát, Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thống nhất báo cáo Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp rút vụ án để dò hỏi.

3. Quyết định thay đổi và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát quy định tại Điều này phải gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án, đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ kiểm sát.

Điều 9. Yêu cầu thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi; Thủ trưởng, Cấp trưởng, Phó Thủ trưởng, Cấp phó của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi

1. Lúc thấy Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 49 và Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên trao đổi ngay để Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi từ chối thực hiện tố tụng, nếu ko từ chối thì Kiểm sát viên có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi.

Trường hợp Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thay đổi.

2. Nếu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện thủ tục yêu cầu Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định chuyển vụ án tới Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp để thực hiện dò hỏi. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có văn bản yêu cầu thì Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án. Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo bằng văn bản về việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi vụ án.

Điều 10. Kiểm sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự

1. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ hành vi, tài liệu tố tụng, đảm bảo nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp tài liệu tố tụng ko trình bày bằng tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng ko sử dụng được tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng có khuyết tật nghe, nói, nhìn thì Kiểm sát viên chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi yêu cầu cử người dịch thuật, người thông dịch tham gia tố tụng.

Việc thông dịch phải lập biên bản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 11. Kiểm sát việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng

1. Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền dò hỏi trong việc thông báo, giao, gửi, cấp, chuyển, niêm yết tài liệu, văn bản tố tụng và việc giảng giải, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc thông báo, giảng giải phải được ghi vào biên bản.

2. Lúc kiểm sát việc đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị kết tội, Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau:

a) Kiểm sát chặt chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ; việc thông báo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc người đại diện hoặc người thân thích của họ đã có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa theo đúng quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự; việc đảm bảo quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Trường hợp người bị kết tội thuộc diện được chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Người bị kết tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa. Việc thay đổi người bào chữa do cơ quan đã yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa xem xét, khắc phục; việc từ chối người bào chữa phải được lập biên bản và người có thẩm quyền thực hiện tố tụng kết thúc việc chỉ định người bào chữa.

3. Trong thời đoạn truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm tiếp thu, xử lý đơn yêu cầu bào chữa của bị can, người đại diện hoặc người thân thích của bị can; đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện thực hiện các thủ tục chỉ định người bào chữa cho bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Lúc người bào chữa đăng ký bào chữa, Kiểm sát viên có trách nhiệm rà soát các giấy tờ người bào chữa xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự, rà soát điều kiện ko được tham gia bào chữa của người bào chữa theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ lúc nhận đủ giấy tờ, nếu đủ điều kiện, Kiểm sát viên vào sổ đăng ký bào chữa và ra văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ; trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.

Trường hợp bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa có yêu cầu đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan tới việc kết tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan tới việc bào chữa thì Kiểm sát viên xếp đặt thời kì, vị trí và kiểm sát chặt chẽ bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật.

Điều 12. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc và giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi

1. Trong quá trình rà soát, xác minh, khởi tố, dò hỏi và truy tố, tài liệu của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc của Viện kiểm sát tích lũy đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc theo đúng trình tự tố tụng.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, đảm bảo tài liệu trong hồ sơ phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát kèm theo bản thống kê tài liệu theo quy định của pháp luật.

Lúc thu được tài liệu liên quan tới vụ án, vụ việc do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi chuyển tới, Kiểm sát viên phải rà soát tính hợp pháp của tài liệu đó. Trường hợp phát hiện tài liệu tích lũy ko đúng quy định của pháp luật hoặc ko có trị giá chứng minh thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Việc giao, nhận, thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án trong thời đoạn dò hỏi, truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật và Điều 66 của Quy chế này.

2. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người tham gia tố tụng giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; nếu phát hiện vi phạm thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Phát hiện và xử lý vi phạm

1. Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc phải kịp thời phát hiện, theo dõi, tổng hợp vi phi pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xử lý nghiêm minh Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi vi phi pháp luật lúc thực hiện hoạt động rà soát, xác minh, dò hỏi. Nếu vi phạm của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi có tín hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi khởi tố vụ án hình sự; nếu có tín hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung ương để lãnh đạo Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, khắc phục theo thẩm quyền.

Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định thay đổi, hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Đối với lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đã được Viện kiểm sát phê duyệt nhưng mà phát hiện ko có căn cứ và trái pháp luật thì lãnh đạo Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Trường hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để thực hiện.

2. Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm yêu cầu, tổng hợp các vi phi pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người tham gia tố tụng và những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội của cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản kiến nghị yêu cầu khắc phục và vận dụng các giải pháp phòng ngừa tội phạm, vi phi pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 160, khoản 6, khoản 8 Điều 166 và khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 14. Xử lý, kiến nghị xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự

1. Người bị kết tội, người tham gia tố tụng khác có một trong các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự quy định tại Điều 466 Bộ luật Tố tụng hình sự thì tùy từng hành vi, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục theo thẩm quyền hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.

2. Hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Chương II

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ

Điều 15. Xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp

1. Ngay sau lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên phải thực hiện các hoạt động sau đây:

a) Rà soát hồ sơ, đảm bảo đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp ko đủ tài liệu, chứng cứ thì yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung;

b) Xác định thẩm quyền, căn cứ của việc giữ người trong trường hợp nguy cấp theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, thấy có tín hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc chưa đủ căn cứ để giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc người bị giữ ko nhận tội, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có tranh chấp, người bị giữ là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, là thân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi người bị giữ trước lúc báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc phê duyệt. Lúc cần hỏi người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên thông báo trước cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để phối hợp trong quá trình hỏi. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ do Kiểm sát viên lập phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự và theo Mẫu do Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ban hành, được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát.

2. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, lãnh đạo Viện phải quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt; thời hạn này được tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc.

Điều 16. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm giữ

1. Ngay sau lúc thu được quyết định tạm giữ, hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Kiểm sát viên thực hiện rà soát tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Nếu thấy việc tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 4 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết, thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Viện kiểm sát đã phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ hai thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do.

2. Hằng ngày, Viện kiểm sát phải kiểm sát số người bị bắt, bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ, số người chuyển tạm giam, số người được trả tự do hoặc vận dụng giải pháp ngăn chặn khác, số người Viện kiểm sát ko phê duyệt việc bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, ko phê duyệt gia hạn tạm giữ, số người bị bắt, bị tạm giữ nhưng ko xử lý hình sự; phát hiện, tổng hợp vi phạm của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Hằng tuần, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 17. Xét phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, quyết định vận dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ giải pháp tạm giam

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, văn bản yêu cầu xét phê duyệt và hồ sơ liên quan tới việc tạm giam, Kiểm sát viên rà soát tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại các điều 113, 119 và 173 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định thẩm quyền, nhân vật, căn cứ, điều kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối với từng bị can; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt và trả hồ sơ cho cơ quan yêu cầu phê duyệt ngay sau lúc kết thúc việc xét phê duyệt. Đối với trường hợp bị can bị bắt tạm giam sau lúc đã khởi tố vụ án thì thời hạn tạm giam ko được quá thời hạn dò hỏi vụ án.

Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ xem xét, quyết định việc phê duyệt. Trong trường hợp này, thời hạn xét phê duyệt là 03 ngày, kể từ lúc Viện kiểm sát thu được tài liệu, chứng cứ bổ sung.

Kiểm sát viên phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu làm căn cứ xét phê duyệt và trả hồ sơ cho Cơ quan dò hỏi ngay sau lúc kết thúc việc phê duyệt.

2. Nếu thấy đủ căn cứ để tạm giam bị can theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự và cần thiết phải tạm giam bị can, nhưng Cơ quan dò hỏi ko ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, thì Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam và chuyển cho Cơ quan dò hỏi để thực hiện.

3. Sau lúc phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm giam bị can để kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, trường hợp còn thời hạn tạm giam nhưng xét thấy giải pháp tạm giam đối với bị can ko còn cần thiết thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giam hoặc thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác;

b) Trước lúc hết thời hạn tạm giam 10 ngày, nếu Cơ quan dò hỏi chưa có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát gia hạn tạm giam bị can thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

Chậm nhất 05 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định gia hạn tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

4. Viện kiểm sát phải nắm chắc số liệu tạm giam; theo dõi, quản lý chặt chẽ các trường hợp ko phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, ko phê duyệt lệnh tạm giam, ko gia hạn tạm giam, quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp tạm giam, các trường hợp tạm giam nhưng đình chỉ dò hỏi do bị can ko phạm tội hoặc Tòa án tuyên ko phạm tội để báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện. Hằng tháng, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 18. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo, yêu cầu xét phê duyệt và tài liệu khác có liên quan về việc bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo theo quy định tại Điều 121 hoặc Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 07/8/2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng và Tòa án nhân dân vô thượng quy định cụ thể trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, trưng thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để đảm bảo, báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo.

Trường hợp bị can đã được vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo nhưng vi phạm nghĩa vụ thì Viện kiểm sát quyết định vận dụng giải pháp tạm giam đối với bị can.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ thay thế giải pháp tạm giam bằng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định.

Điều 19. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ

1. Sau lúc phê duyệt quyết định khởi tố bị can, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và việc thông báo về việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Nếu phát hiện lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh đó. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

Trường hợp phát hiện bị can vi phạm việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp nếu bị can đã được quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ nhưng vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

Điều 20. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm hoãn xuất cảnh

1. Ngay sau lúc thu được thông báo về việc quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh. Trường hợp xét thấy quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại Điều 41 và khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu có căn cứ xác định việc bị can có tín hiệu bỏ trốn ra nước ngoài nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh và gửi ngay cho Cơ quan dò hỏi, Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với những người quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh ko được quá thời hạn quyết định việc truy tố.

Điều 21. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt; nếu xét thấy ko còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế nhưng Viện kiểm sát thấy việc hủy bỏ hoặc thay thế đó ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trường hợp chưa hết thời hạn gia hạn tạm giữ nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xét thấy ko cần thiết tạm giữ thì căn cứ khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giữ; nếu cần thiết phải vận dụng giải pháp ngăn chặn khác thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát thực hiện.

Điều 22. Gia hạn tạm giam để dò hỏi

1. Việc gia hạn tạm giam và thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát các ngành được thực hiện theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm giam theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vụ án đang do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi, thì trên cơ sở yêu cầu gia hạn tạm giam của Cơ quan dò hỏi cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phải chuyển hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, nêu rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lý do yêu cầu gia hạn tới Viện kiểm sát nhân dân vô thượng chậm nhất 10 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam. Chậm nhất 05 ngày, kể từ lúc thu được hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phải quyết định gia hạn hoặc ko gia hạn tạm giam; nếu ko gia hạn tạm giam thì phải có văn bản nêu rõ lý do và trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã yêu cầu.

Điều 23. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải

1. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố, nếu xét thấy cần thiết phải vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải các nhân vật quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ra quyết định dẫn giải, dẫn giải.

2. Lúc kiểm sát việc dẫn giải, dẫn giải của Khảo sát viên, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị dẫn giải, dẫn giải; điều kiện vận dụng, thẩm quyền; nội dung quyết định, trình tự thi hành; cơ quan có trách nhiệm thi hành quyết định dẫn giải, quyết định dẫn giải. Nếu phát hiện vi phạm phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm và kiểm sát việc khắc phục vi phạm.

Điều 24. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Sau lúc thu được lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị vận dụng, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản; nội dung biên bản kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa vận dụng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi vận dụng; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản và yêu cầu Cơ quan dò hỏi tổ chức, triển khai thực hiện.

Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ lệnh đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết định việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, đồng thời yêu cầu Cơ quan dò hỏi phối hợp thực hiện.

Điều 25. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ từng trường hợp, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp có đủ căn cứ hủy bỏ giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ.

Trường hợp xét thấy ko còn cần thiết vận dụng hoặc có thể thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi bằng giải pháp khác theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ban hành quyết định hủy bỏ hoặc thay thế, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng xét thấy quyết định hủy bỏ hoặc thay thế của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ và trái pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, quyết định vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản do Viện kiểm sát ban hành thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trong thời đoạn truy tố, Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản lúc có đủ căn cứ quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chương III

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN

Điều 26. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên lúc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc những người biết về vụ việc phân phối các thông tin liên quan tới vụ việc cần khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

2. Kiểm sát viên phải kiểm sát thành phần thực hiện, tham gia việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi đảm bảo đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

3. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có liên quan tới vụ việc khám nghiệm; lập biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ và các hoạt động khác theo đúng quy định của pháp luật.

4. Kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định, kịp thời đề ra các yêu cầu cho Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y tích lũy, làm rõ các dấu vết thương tích, phẫu thuật tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công việc truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án ko quả tang.

5. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y xác định chuẩn xác phạm vi hiện trường, bao gồm cả hiện trường chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án, hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và phương tiện, phương tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, tích lũy đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan tới tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Kiểm sát viên có thể thu thanh hoặc ghi hình có âm thanh việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để phục vụ cho công việc kiểm sát.

6. Rà soát, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và các tài liệu liên quan khác so với thực tiễn hiện trường, diễn biến quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi để đảm bảo chuẩn xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.

7. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi phải có mặt từ lúc mở màn tới lúc kết thúc, ký tên vào sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm dò hỏi.

8. Mọi trường hợp Kiểm sát viên ko trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi thì ko được ký vào các loại biên bản trên.

Điều 27. Tiếp thu, xử lý và khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi

1. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp thu, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi do cơ quan, tổ chức, tư nhân chuyển tới. Kiểm sát viên phải ghi vào sổ thụ lý; ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm tiếp thu; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, tư nhân phân phối; kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan dò hỏi có thẩm quyền khắc phục. Nếu là thông tin do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi phân phối, Kiểm sát viên được phân công trực phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trong ca trực để kịp thời phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật thông tin của tư nhân đã phân phối tố giác, tin báo có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.

2. Lúc thu được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối với tất cả các vụ việc nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện khám nghiệm theo quy định của pháp luật.

Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ án giết mổ người ko quả tang, các vụ tai nạn giao thông, các vụ tai nạn lao động gây hậu quả đặc trưng nghiêm trọng, vụ việc có từ 02 tử thi trở lên; các vụ án nhưng mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức hoặc các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã hội đặc trưng quan tâm hoặc các trường hợp khác lúc xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới yêu cầu Viện kiểm sát cấp trên phân công Kiểm sát viên cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

Điều 28. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền khắc phục các vụ án hình sự và theo lãnh thổ. Các vụ án giết mổ người, nghi giết mổ người; các vụ tai nạn lao động, tai nạn giao thông; các vụ cháy, nổ đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có liên quan tới yếu tố nước ngoài; các vụ việc đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan dò hỏi cấp tỉnh, Cơ quan dò hỏi quân sự cấp quân khu thực hiện khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

Xem thêm:  Một số đoạn văn giới thiệu bản thân bằng tiếng Anh cực hay

2. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, lúc có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có dấu vết tội phạm có trách nhiệm phân công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Điều 29. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm hiện trường

Trước lúc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thông báo nội dung, diễn biến thuở đầu của sự việc xảy ra, công việc bảo vệ hiện trường, để tham gia ý kiến vào việc sẵn sàng khám nghiệm, phương pháp khám nghiệm, chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện khám nghiệm hiện trường, rà soát đầy đủ thành phần trước lúc thực hiện khám nghiệm đảm bảo đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 30. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường

1. Kiểm sát viên phải phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự, phương pháp khám nghiệm hiện trường, đảm bảo khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Kiểm sát việc lấy lời khai những người biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc nhân vật có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi lấy ngay lời khai và thu thanh lời khai của họ.

2. Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường phân phối; hoặc tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để giám định tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi đó do các yếu tố con người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được xem xét, thu giữ để yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện.

3. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường và thực hiện các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.

Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, rà soát với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan tới tội phạm, lấy lời khai và thu thanh lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc,các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

4. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu khám nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật tạo nên dấu vết để có thể phát hiện, xác định được loại dấu vết; dấu vết tạo nên đúng hay trái với quy luật thông thường, sự tranh chấp giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời yêu cầu tích lũy đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng các dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay ko việc tạo hiện trường giả sau lúc gây án.

5. Kiểm sát viên phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn phân tích, giám định các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết dò hỏi, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chuẩn xác, phục vụ công việc truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội.

Nếu thấy việc khám nghiệm hiện trường chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xin ý kiến lãnh đạo; yêu cầu Khảo sát viên ghi ý kiến của mình vào biên bản khám nghiệm.

6. Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, đảm bảo phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ khắc phục vụ án.

7. Kiểm sát viên phải có trách nhiệm phối hợp cùng Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi phân tích, giám định đúng kết quả khám nghiệm hiện trường; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Trường vừa ý kiến giữa Kiểm sát viên và Khảo sát viên ko thống nhất thì Kiểm sát viên yêu cầu ghi ý kiến của mình vào biên bản và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện sau lúc kết thúc khám nghiệm.

8. Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi quán triệt những người tham gia khám nghiệm hiện trường giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối ko được tiết lộ, gây khó khăn cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Điều 31. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến xử lý với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm hiện trường, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 32. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm tử thi

Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với Khảo sát viên để thống nhất nội dung, kế hoạch khám nghiệm tử thi. Trước lúc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên thông báo tóm tắt nội dung vụ việc, thành phần thực hiện, tham gia khám nghiệm, thời kì, vị trí thực hiện khám nghiệm.

Điều 33. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm tử thi

1. Trong quá trình khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện chụp ảnh, mô tả đầy đủ dấu vết để lại trên tử thi, tích lũy, bảo quản mẫu vật, phục vụ công việc giám định để xác định nguyên nhân chết hoặc truy tìm tung tích của nạn nhân.

Kiểm sát viên phải ghi chép, mô tả đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các dấu vết để lại trên tử thi để làm cơ sở xem xét, đối chiếu với biên bản khám nghiệm tử thi.

2. Nếu thấy việc khám nghiệm tử thi chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì yêu cầu ghi ý kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.

3. Trường hợp phải khai quật tử thi, Kiểm sát viên phải kiểm sát về trình tự, thủ tục, đảm bảo việc khai quật tử thi để khám nghiệm đúng quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Điều 34. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm tử thi, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có) để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 35. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi

1. Lúc thu được thông báo của Cơ quan dò hỏi về việc thực nghiệm dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo cho Cơ quan dò hỏi biết để ghi vào biên bản thực nghiệm dò hỏi.

Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm dò hỏi, đảm bảo việc dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác thích hợp với thực tiễn khách quan, theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong trường hợp cần thiết nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa tổ chức thực nghiệm dò hỏi, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực hiện thực nghiệm dò hỏi.

2. Viện kiểm sát thực hiện thực nghiệm dò hỏi lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực nghiệm dò hỏi nhưng Cơ quan dò hỏi ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ;

b) Trong thời đoạn truy tố, nhưng mà xét thấy việc thực nghiệm dò hỏi đơn giản, ko cần phải trả hồ sơ để dò hỏi bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện tự mình hoặc phối hợp với Cơ quan dò hỏi tổ chức thực nghiệm dò hỏi.

Việc thực nghiệm dò hỏi và lập biên bản thực nghiệm dò hỏi phải theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

Điều 36. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giám định

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi nhằm đảm bảo nội dung trưng cầu giám định cụ thể, rõ ràng, thích hợp với sự việc và những vấn đề cần yêu cầu kết luận. Trường hợp cần thiết, vụ án, vụ việc cần phải trưng cầu giám định, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thống nhất nội dung trưng cầu giám định trước lúc trưng cầu; lúc có kết luận giám định cần phối hợp rà soát, giám định toàn thể kết quả và lập thành biên bản lưu hồ sơ kiểm sát.

Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để phát hiện các nội dung cần giám định, các trường hợp buộc phải phải trưng cầu giám định quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Tòa án nhân dân vô thượng, Bộ Công an và Bộ Tư pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong khắc phục vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám định để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp Kiểm sát viên tham gia giám định, thì phải thông báo trước cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám định liên quan tới các tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định bổ sung theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần đầu ko chuẩn xác hoặc có sự không giống nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu tổ chức, tư nhân đã thực hiện giám định giảng giải kết luận giám định, hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu phát hiện người giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định thay đổi người giám định.

3. Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trưng cầu giám định lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn khởi tố, Viện kiểm sát trực tiếp khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

b) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định trưng cầu giám định nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện nhưng mà nếu ko giám định thì ko đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

c) Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết.

4. Trường hợp Viện kiểm sát đã trưng cầu giám định nhưng mà thấy cần giám định bổ sung, giám định lại, giám định lại lần thứ hai hoặc cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.

5. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn gửi quyết định trưng cầu giám định, thời hạn giám định và thời hạn gửi kết luận giám định, đảm bảo đúng theo quy định tại các điều 205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 37. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc định giá tài sản

1. Kiểm sát viên chủ động kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu định giá tài sản theo quy định tại các điều 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Sau lúc nhận được văn bản yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, nếu thấy nội dung chưa đầy đủ, rõ ràng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra sửa đổi, bổ sung.

Trường hợp cần định giá tài sản nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu định giá tài sản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.

Nếu phát hiện người định giá tài sản thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá tài sản thay đổi người định giá tài sản.

3. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ kết luận định giá tài sản, bảo đảm kết luận định giá tài sản khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra và đáp ứng được yêu cầu định giá tài sản.

Lúc có căn cứ phải định giá lại tài sản, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi yêu cầu định giá lại tài sản; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng quyết định việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc trưng theo quy định tại Điều 220 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận định giá thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu Hội đồng định giá tài sản giảng giải kết luận định giá, hỏi thêm về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự.

4. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên tham gia phiên họp định giá tài sản nhưng phải thông báo trước cho Hội đồng định giá tài sản. Lúc tham gia phiên họp, Kiểm sát viên có quyền đưa ra ý kiến, nếu được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản.

……………..

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định tại file dưới đây!

Đăng bởi: Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Tổng hợp

Bạn thấy bài viết Quyết định 111/QĐ-VKSTC có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Quyết định 111/QĐ-VKSTC bên dưới để dienchau2.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Văn học
#Quyết #định #111QĐVKSTC

[toggle title=”xem thêm thông tin chi tiết về Quyết định 111/QĐ-VKSTC” state=”close”]

Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Hình Ảnh về: Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Video về: Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Wiki về Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Quyết định 111/QĐ-VKSTC -

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC tại dienchau2.edu.vn

Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Mới đây, Viện Kiểm sát Nhân dân tối ca đã đưa ra quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi tố, dò hỏi trong Quyết định 111/QĐ-VKSTC vào ngày 17/04/2020. Hiệu lực của văn bản pháp luật này sẽ có hiệu lực tính từ lúc ngàu được ban hành. Sau đầy, Trường THPT Diễn Châu 2 xin mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định này.

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
——-

Số: 111/QĐ-VKSTC

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2020

QUYẾT ĐỊNH 111/QĐ-VKSTC

VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ

———

VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;

Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Xét yêu cầu của Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án an ninh và Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân vô thượng,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định.

Điều 3. Thủ trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các ngành chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận:
Như Điều 3;
– Lãnh đạo VKSND vô thượng;
– Lưu: VT, V1, V14.

VIỆN TRƯỞNG




Lê Minh Trí

QUY CHẾ

CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng)

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Quy chế này quy định các hoạt động sau đây:

1. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục nguồn tin về tội phạm do người phạm tội tự thú hoặc những thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng trực tiếp phát hiện cũng được thực hiện theo quy định của Quy chế này;

2. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố;

3. Thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi;

4. Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời đoạn truy tố.

Điều 2. Nhân vật vận dụng

1. Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

2. Người có thẩm quyền thực hiện tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

3. Cơ quan, tổ chức, tư nhân khác có liên quan tới công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 3. Mục tiêu công việc

1. Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, dò hỏi và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ko để lọt tội phạm và người phạm tội, ko làm oan người vô tội.

2. Ko để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mệnh, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và phẩm chất một cách trái pháp luật.

3. Việc khởi tố, dò hỏi, truy tố phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chuẩn xác, đúng pháp luật; những vi phi pháp luật trong quá trình khởi tố, dò hỏi, truy tố phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh.

Điều 4. Từ ngữ sử dụng trong Quy chế

1. “Viện kiểm sát” gồm Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự.

2. “Lãnh đạo Viện” gồm Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công hoặc ủy quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

3. “Lãnh đạo đơn vị” gồm Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng các vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử sơ thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự trung ương, Trưởng ban, Phó Trưởng ban đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

4. “Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Cơ quan dò hỏi, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

5. “Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

6. “Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

7. “Cán bộ dò hỏi” gồm Cán bộ dò hỏi của Cơ quan dò hỏi, Cán bộ dò hỏi của cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

Điều 5. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định tại các điều 41, 42, 43, quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật khác có liên quan trong việc khởi tố, dò hỏi, truy tố.

2. Lúc được phân công thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc, Kiểm sát viên, Rà soát viên có trách nhiệm quản lý hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát. Lúc báo cáo đề xuất các vấn đề thuộc công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,dò hỏi và truy tố với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải báo cáo trung thực, khách quan, chuẩn xác, đầy đủ nội dung vụ án, vụ việc, tiến độ khắc phục và đề xuất ý kiến xử lý bằng văn bản.

3. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có trách nhiệm quản lý, lãnh đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; xem xét, quyết định các vấn đề liên quan tới việc khắc phục vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật, Quy chế này và các quy định khác có liên quan.

Sau lúc nghe Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất khắc phục vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ghi rõ ý kiến lãnh đạo vào văn bản đề xuất của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết thì trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, rà soát chứng cứ trong hồ sơ hoặc trực tiếp thực hiện một số hoạt động khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, hoạt động dò hỏi trước lúc cho ý kiến lãnh đạo. Văn bản đề xuất phải ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trong quá trình khắc phục vụ án, vụ việc, nếu có ý kiến không giống nhau giữa các Kiểm sát viên hoặc giữa Kiểm sát viên với Phó Viện trưởng, Viện trưởng thì thực hiện theo quy định tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trường hợp có ý kiến không giống nhau giữa Kiểm sát viên thụ lý chính với lãnh đạo đơn vị thì phải thực hiện ý kiến của lãnh đạo đơn vị, nhưng có quyền báo cáo với Phó Viện trưởng phụ trách; nếu có ý kiến không giống nhau giữa lãnh đạo đơn vị với Phó Viện trưởng thì phải thực hiện ý kiến của Phó Viện trưởng, nhưng có quyền báo cáo với Viện trưởng. Kết luận của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được ghi vào báo cáo của đơn vị và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trường hợp vụ án, vụ việc phức tạp, có khó khăn, vướng mắc trong quá trình khắc phục, Viện trưởng có thể đưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Ủy ban kiểm sát thảo luận trước lúc kết luận. Đối với vụ án, vụ việc Viện kiểm sát cấp dưới thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị thực hiện theo quy định của Ngành.

4. Lúc phát hiện có sơ sót về nghiệp vụ hoặc vi phi pháp luật thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải có giải pháp khắc phục ngay và tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xử lý trách nhiệm người vi phạm theo quy định của pháp luật.

Điều 6. Việc ban hành văn bản tố tụng của Viện kiểm sát trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên ban hành văn bản tố tụng trong các thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình.

3. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công phụ trách lĩnh vực công việc hoặc ủy quyền có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình trừ văn bản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và văn bản về khắc phục khiếu nại, tố cáo đối với hành vi, quyết định của mình.

4. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố có quyền ký các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với vụ án, vụ việc phức tạp, có ý kiến không giống nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng hoặc trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất xin ý kiến lãnh đạo của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ký văn bản tố tụng.

5. Sau lúc quyết định việc ban hành các văn bản tố tụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng hoặc Kiểm sát viên cao cấp là Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án hình sự ký thừa lệnh đối với văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của mình, trừ văn bản quy định tại các điểm b, d và đ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và Cáo trạng. Trường hợp đặc trưng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng có thể phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ký Cáo trạng.

Trường hợp Vụ trưởng vắng mặt nhưng mà phát sinh văn bản cần ký ngay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng xem xét, quyết định phân công Kiểm sát viên cao cấp là Phó Vụ trưởng được giao phụ trách việc khắc phục vụ án, vụ việc ký quyết định tố tụng đối với vụ án, vụ việc đó.

Các văn bản tố tụng Kiểm sát viên được phân công ký thừa lệnh Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng thực hiện theo Phụ lục A ban hành kèm theo Quy chế này. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ký các văn bản được phân công; sau lúc ký văn bản, Kiểm sát viên phải gửi cho lãnh đạo Viện để theo dõi, lãnh đạo. Lúc ký các văn bản tố tụng được phân công, Kiểm sát viên phải ghi thừa lệnh Viện trưởng, cụ thể như sau:

TL.VIỆN TRƯỞNG

KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

(hoặc KIỂM SÁT VIÊN CAO CẤP)

Chữ ký

(Ghi rõ họ và tên)

Điều 7. Phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được thông báo bằng văn bản về việc tiếp thu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khắc phục vụ án, vụ việc. Tùy theo tính chất của vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có thể phân công một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng khắc phục vụ án, vụ việc.

Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án, vụ việc thì Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản thông báo gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

2. Trường hợp vụ án, vụ việc có nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng tham gia khắc phục thì trong quyết định phân công phải ghi rõ phân công Kiểm sát viên thụ lý chính. Tại Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên cao cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên trung cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên sơ cấp trở lên.

Kiểm sát viên thụ lý chính có trách nhiệm xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi, truy tố, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng Kiểm sát viên, Rà soát viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về việc khắc phục vụ án, vụ việc.

3. Trường hợp vụ án, vụ việc có cả Kiểm sát viên và Rà soát viên tham gia khắc phục thì Rà soát viên giúp việc cho Kiểm sát viên và tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên. Các Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công và chịu sự lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên thụ lý chính. Kiểm sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn.

Điều 8. Thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát

1. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được kiến nghị của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc yêu cầu của người tham gia tố tụng về việc xem xét thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy có căn cứ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy ko có căn cứ thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do.

Nếu Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện trưởng phân công Phó Viện trưởng khác hoặc Viện trưởng trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án; đồng thời, thông báo bằng văn bản việc thay đổi đó cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi).

Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định phân công một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nơi Viện trưởng bị thay đổi thực hiện tố tụng đối với vụ án và thông báo bằng văn bản cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi); trường hợp Viện trưởng và Phó Viện trưởng đều thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện kiểm sát, Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thống nhất báo cáo Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp rút vụ án để dò hỏi.

3. Quyết định thay đổi và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát quy định tại Điều này phải gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án, đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ kiểm sát.

Điều 9. Yêu cầu thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi; Thủ trưởng, Cấp trưởng, Phó Thủ trưởng, Cấp phó của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi

1. Lúc thấy Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 49 và Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên trao đổi ngay để Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi từ chối thực hiện tố tụng, nếu ko từ chối thì Kiểm sát viên có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi.

Trường hợp Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thay đổi.

2. Nếu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện thủ tục yêu cầu Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định chuyển vụ án tới Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp để thực hiện dò hỏi. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có văn bản yêu cầu thì Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án. Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo bằng văn bản về việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi vụ án.

Điều 10. Kiểm sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự

1. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ hành vi, tài liệu tố tụng, đảm bảo nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp tài liệu tố tụng ko trình bày bằng tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng ko sử dụng được tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng có khuyết tật nghe, nói, nhìn thì Kiểm sát viên chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi yêu cầu cử người dịch thuật, người thông dịch tham gia tố tụng.

Việc thông dịch phải lập biên bản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 11. Kiểm sát việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng

1. Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền dò hỏi trong việc thông báo, giao, gửi, cấp, chuyển, niêm yết tài liệu, văn bản tố tụng và việc giảng giải, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc thông báo, giảng giải phải được ghi vào biên bản.

2. Lúc kiểm sát việc đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị kết tội, Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau:

a) Kiểm sát chặt chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ; việc thông báo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc người đại diện hoặc người thân thích của họ đã có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa theo đúng quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự; việc đảm bảo quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Trường hợp người bị kết tội thuộc diện được chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Người bị kết tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa. Việc thay đổi người bào chữa do cơ quan đã yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa xem xét, khắc phục; việc từ chối người bào chữa phải được lập biên bản và người có thẩm quyền thực hiện tố tụng kết thúc việc chỉ định người bào chữa.

3. Trong thời đoạn truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm tiếp thu, xử lý đơn yêu cầu bào chữa của bị can, người đại diện hoặc người thân thích của bị can; đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện thực hiện các thủ tục chỉ định người bào chữa cho bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Lúc người bào chữa đăng ký bào chữa, Kiểm sát viên có trách nhiệm rà soát các giấy tờ người bào chữa xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự, rà soát điều kiện ko được tham gia bào chữa của người bào chữa theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ lúc nhận đủ giấy tờ, nếu đủ điều kiện, Kiểm sát viên vào sổ đăng ký bào chữa và ra văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ; trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.

Trường hợp bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa có yêu cầu đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan tới việc kết tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan tới việc bào chữa thì Kiểm sát viên xếp đặt thời kì, vị trí và kiểm sát chặt chẽ bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật.

Điều 12. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc và giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi

1. Trong quá trình rà soát, xác minh, khởi tố, dò hỏi và truy tố, tài liệu của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc của Viện kiểm sát tích lũy đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc theo đúng trình tự tố tụng.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, đảm bảo tài liệu trong hồ sơ phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát kèm theo bản thống kê tài liệu theo quy định của pháp luật.

Lúc thu được tài liệu liên quan tới vụ án, vụ việc do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi chuyển tới, Kiểm sát viên phải rà soát tính hợp pháp của tài liệu đó. Trường hợp phát hiện tài liệu tích lũy ko đúng quy định của pháp luật hoặc ko có trị giá chứng minh thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Việc giao, nhận, thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án trong thời đoạn dò hỏi, truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật và Điều 66 của Quy chế này.

2. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người tham gia tố tụng giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; nếu phát hiện vi phạm thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Phát hiện và xử lý vi phạm

1. Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc phải kịp thời phát hiện, theo dõi, tổng hợp vi phi pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xử lý nghiêm minh Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi vi phi pháp luật lúc thực hiện hoạt động rà soát, xác minh, dò hỏi. Nếu vi phạm của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi có tín hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi khởi tố vụ án hình sự; nếu có tín hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung ương để lãnh đạo Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, khắc phục theo thẩm quyền.

Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định thay đổi, hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Đối với lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đã được Viện kiểm sát phê duyệt nhưng mà phát hiện ko có căn cứ và trái pháp luật thì lãnh đạo Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Trường hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để thực hiện.

2. Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm yêu cầu, tổng hợp các vi phi pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người tham gia tố tụng và những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội của cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản kiến nghị yêu cầu khắc phục và vận dụng các giải pháp phòng ngừa tội phạm, vi phi pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 160, khoản 6, khoản 8 Điều 166 và khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 14. Xử lý, kiến nghị xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự

1. Người bị kết tội, người tham gia tố tụng khác có một trong các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự quy định tại Điều 466 Bộ luật Tố tụng hình sự thì tùy từng hành vi, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục theo thẩm quyền hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.

2. Hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Chương II

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ

Điều 15. Xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp

1. Ngay sau lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên phải thực hiện các hoạt động sau đây:

a) Rà soát hồ sơ, đảm bảo đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp ko đủ tài liệu, chứng cứ thì yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung;

b) Xác định thẩm quyền, căn cứ của việc giữ người trong trường hợp nguy cấp theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, thấy có tín hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc chưa đủ căn cứ để giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc người bị giữ ko nhận tội, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có tranh chấp, người bị giữ là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, là thân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi người bị giữ trước lúc báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc phê duyệt. Lúc cần hỏi người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên thông báo trước cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để phối hợp trong quá trình hỏi. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ do Kiểm sát viên lập phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự và theo Mẫu do Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ban hành, được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát.

2. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, lãnh đạo Viện phải quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt; thời hạn này được tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc.

Điều 16. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm giữ

1. Ngay sau lúc thu được quyết định tạm giữ, hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Kiểm sát viên thực hiện rà soát tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Nếu thấy việc tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 4 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết, thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Viện kiểm sát đã phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ hai thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do.

2. Hằng ngày, Viện kiểm sát phải kiểm sát số người bị bắt, bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ, số người chuyển tạm giam, số người được trả tự do hoặc vận dụng giải pháp ngăn chặn khác, số người Viện kiểm sát ko phê duyệt việc bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, ko phê duyệt gia hạn tạm giữ, số người bị bắt, bị tạm giữ nhưng ko xử lý hình sự; phát hiện, tổng hợp vi phạm của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Hằng tuần, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 17. Xét phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, quyết định vận dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ giải pháp tạm giam

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, văn bản yêu cầu xét phê duyệt và hồ sơ liên quan tới việc tạm giam, Kiểm sát viên rà soát tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại các điều 113, 119 và 173 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định thẩm quyền, nhân vật, căn cứ, điều kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối với từng bị can; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt và trả hồ sơ cho cơ quan yêu cầu phê duyệt ngay sau lúc kết thúc việc xét phê duyệt. Đối với trường hợp bị can bị bắt tạm giam sau lúc đã khởi tố vụ án thì thời hạn tạm giam ko được quá thời hạn dò hỏi vụ án.

Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ xem xét, quyết định việc phê duyệt. Trong trường hợp này, thời hạn xét phê duyệt là 03 ngày, kể từ lúc Viện kiểm sát thu được tài liệu, chứng cứ bổ sung.

Kiểm sát viên phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu làm căn cứ xét phê duyệt và trả hồ sơ cho Cơ quan dò hỏi ngay sau lúc kết thúc việc phê duyệt.

2. Nếu thấy đủ căn cứ để tạm giam bị can theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự và cần thiết phải tạm giam bị can, nhưng Cơ quan dò hỏi ko ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, thì Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam và chuyển cho Cơ quan dò hỏi để thực hiện.

3. Sau lúc phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm giam bị can để kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, trường hợp còn thời hạn tạm giam nhưng xét thấy giải pháp tạm giam đối với bị can ko còn cần thiết thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giam hoặc thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác;

b) Trước lúc hết thời hạn tạm giam 10 ngày, nếu Cơ quan dò hỏi chưa có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát gia hạn tạm giam bị can thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

Chậm nhất 05 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định gia hạn tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

4. Viện kiểm sát phải nắm chắc số liệu tạm giam; theo dõi, quản lý chặt chẽ các trường hợp ko phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, ko phê duyệt lệnh tạm giam, ko gia hạn tạm giam, quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp tạm giam, các trường hợp tạm giam nhưng đình chỉ dò hỏi do bị can ko phạm tội hoặc Tòa án tuyên ko phạm tội để báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện. Hằng tháng, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 18. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo, yêu cầu xét phê duyệt và tài liệu khác có liên quan về việc bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo theo quy định tại Điều 121 hoặc Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 07/8/2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng và Tòa án nhân dân vô thượng quy định cụ thể trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, trưng thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để đảm bảo, báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo.

Trường hợp bị can đã được vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo nhưng vi phạm nghĩa vụ thì Viện kiểm sát quyết định vận dụng giải pháp tạm giam đối với bị can.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ thay thế giải pháp tạm giam bằng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định.

Điều 19. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ

1. Sau lúc phê duyệt quyết định khởi tố bị can, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và việc thông báo về việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Nếu phát hiện lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh đó. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

Trường hợp phát hiện bị can vi phạm việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp nếu bị can đã được quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ nhưng vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

Điều 20. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm hoãn xuất cảnh

1. Ngay sau lúc thu được thông báo về việc quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh. Trường hợp xét thấy quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại Điều 41 và khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu có căn cứ xác định việc bị can có tín hiệu bỏ trốn ra nước ngoài nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh và gửi ngay cho Cơ quan dò hỏi, Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với những người quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh ko được quá thời hạn quyết định việc truy tố.

Điều 21. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt; nếu xét thấy ko còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế nhưng Viện kiểm sát thấy việc hủy bỏ hoặc thay thế đó ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trường hợp chưa hết thời hạn gia hạn tạm giữ nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xét thấy ko cần thiết tạm giữ thì căn cứ khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giữ; nếu cần thiết phải vận dụng giải pháp ngăn chặn khác thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát thực hiện.

Điều 22. Gia hạn tạm giam để dò hỏi

1. Việc gia hạn tạm giam và thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát các ngành được thực hiện theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm giam theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vụ án đang do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi, thì trên cơ sở yêu cầu gia hạn tạm giam của Cơ quan dò hỏi cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phải chuyển hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, nêu rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lý do yêu cầu gia hạn tới Viện kiểm sát nhân dân vô thượng chậm nhất 10 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam. Chậm nhất 05 ngày, kể từ lúc thu được hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phải quyết định gia hạn hoặc ko gia hạn tạm giam; nếu ko gia hạn tạm giam thì phải có văn bản nêu rõ lý do và trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã yêu cầu.

Điều 23. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải

1. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố, nếu xét thấy cần thiết phải vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải các nhân vật quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ra quyết định dẫn giải, dẫn giải.

2. Lúc kiểm sát việc dẫn giải, dẫn giải của Khảo sát viên, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị dẫn giải, dẫn giải; điều kiện vận dụng, thẩm quyền; nội dung quyết định, trình tự thi hành; cơ quan có trách nhiệm thi hành quyết định dẫn giải, quyết định dẫn giải. Nếu phát hiện vi phạm phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm và kiểm sát việc khắc phục vi phạm.

Điều 24. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Sau lúc thu được lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị vận dụng, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản; nội dung biên bản kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa vận dụng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi vận dụng; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản và yêu cầu Cơ quan dò hỏi tổ chức, triển khai thực hiện.

Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ lệnh đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết định việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, đồng thời yêu cầu Cơ quan dò hỏi phối hợp thực hiện.

Điều 25. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ từng trường hợp, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp có đủ căn cứ hủy bỏ giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ.

Trường hợp xét thấy ko còn cần thiết vận dụng hoặc có thể thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi bằng giải pháp khác theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ban hành quyết định hủy bỏ hoặc thay thế, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng xét thấy quyết định hủy bỏ hoặc thay thế của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ và trái pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, quyết định vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản do Viện kiểm sát ban hành thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trong thời đoạn truy tố, Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản lúc có đủ căn cứ quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chương III

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN

Điều 26. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên lúc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc những người biết về vụ việc phân phối các thông tin liên quan tới vụ việc cần khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

2. Kiểm sát viên phải kiểm sát thành phần thực hiện, tham gia việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi đảm bảo đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

3. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có liên quan tới vụ việc khám nghiệm; lập biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ và các hoạt động khác theo đúng quy định của pháp luật.

4. Kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định, kịp thời đề ra các yêu cầu cho Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y tích lũy, làm rõ các dấu vết thương tích, phẫu thuật tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công việc truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án ko quả tang.

5. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y xác định chuẩn xác phạm vi hiện trường, bao gồm cả hiện trường chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án, hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và phương tiện, phương tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, tích lũy đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan tới tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Kiểm sát viên có thể thu thanh hoặc ghi hình có âm thanh việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để phục vụ cho công việc kiểm sát.

6. Rà soát, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và các tài liệu liên quan khác so với thực tiễn hiện trường, diễn biến quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi để đảm bảo chuẩn xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.

7. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi phải có mặt từ lúc mở màn tới lúc kết thúc, ký tên vào sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm dò hỏi.

8. Mọi trường hợp Kiểm sát viên ko trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi thì ko được ký vào các loại biên bản trên.

Điều 27. Tiếp thu, xử lý và khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi

1. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp thu, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi do cơ quan, tổ chức, tư nhân chuyển tới. Kiểm sát viên phải ghi vào sổ thụ lý; ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm tiếp thu; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, tư nhân phân phối; kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan dò hỏi có thẩm quyền khắc phục. Nếu là thông tin do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi phân phối, Kiểm sát viên được phân công trực phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trong ca trực để kịp thời phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật thông tin của tư nhân đã phân phối tố giác, tin báo có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.

2. Lúc thu được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối với tất cả các vụ việc nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện khám nghiệm theo quy định của pháp luật.

Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ án giết mổ người ko quả tang, các vụ tai nạn giao thông, các vụ tai nạn lao động gây hậu quả đặc trưng nghiêm trọng, vụ việc có từ 02 tử thi trở lên; các vụ án nhưng mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức hoặc các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã hội đặc trưng quan tâm hoặc các trường hợp khác lúc xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới yêu cầu Viện kiểm sát cấp trên phân công Kiểm sát viên cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

Điều 28. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền khắc phục các vụ án hình sự và theo lãnh thổ. Các vụ án giết mổ người, nghi giết mổ người; các vụ tai nạn lao động, tai nạn giao thông; các vụ cháy, nổ đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có liên quan tới yếu tố nước ngoài; các vụ việc đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan dò hỏi cấp tỉnh, Cơ quan dò hỏi quân sự cấp quân khu thực hiện khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

2. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, lúc có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có dấu vết tội phạm có trách nhiệm phân công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Điều 29. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm hiện trường

Trước lúc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thông báo nội dung, diễn biến thuở đầu của sự việc xảy ra, công việc bảo vệ hiện trường, để tham gia ý kiến vào việc sẵn sàng khám nghiệm, phương pháp khám nghiệm, chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện khám nghiệm hiện trường, rà soát đầy đủ thành phần trước lúc thực hiện khám nghiệm đảm bảo đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 30. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường

1. Kiểm sát viên phải phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự, phương pháp khám nghiệm hiện trường, đảm bảo khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Kiểm sát việc lấy lời khai những người biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc nhân vật có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi lấy ngay lời khai và thu thanh lời khai của họ.

2. Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường phân phối; hoặc tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để giám định tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi đó do các yếu tố con người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được xem xét, thu giữ để yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện.

3. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường và thực hiện các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.

Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, rà soát với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan tới tội phạm, lấy lời khai và thu thanh lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc,các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

4. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu khám nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật tạo nên dấu vết để có thể phát hiện, xác định được loại dấu vết; dấu vết tạo nên đúng hay trái với quy luật thông thường, sự tranh chấp giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời yêu cầu tích lũy đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng các dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay ko việc tạo hiện trường giả sau lúc gây án.

5. Kiểm sát viên phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn phân tích, giám định các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết dò hỏi, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chuẩn xác, phục vụ công việc truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội.

Nếu thấy việc khám nghiệm hiện trường chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xin ý kiến lãnh đạo; yêu cầu Khảo sát viên ghi ý kiến của mình vào biên bản khám nghiệm.

6. Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, đảm bảo phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ khắc phục vụ án.

7. Kiểm sát viên phải có trách nhiệm phối hợp cùng Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi phân tích, giám định đúng kết quả khám nghiệm hiện trường; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Trường vừa ý kiến giữa Kiểm sát viên và Khảo sát viên ko thống nhất thì Kiểm sát viên yêu cầu ghi ý kiến của mình vào biên bản và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện sau lúc kết thúc khám nghiệm.

8. Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi quán triệt những người tham gia khám nghiệm hiện trường giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối ko được tiết lộ, gây khó khăn cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Điều 31. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến xử lý với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm hiện trường, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 32. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm tử thi

Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với Khảo sát viên để thống nhất nội dung, kế hoạch khám nghiệm tử thi. Trước lúc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên thông báo tóm tắt nội dung vụ việc, thành phần thực hiện, tham gia khám nghiệm, thời kì, vị trí thực hiện khám nghiệm.

Điều 33. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm tử thi

1. Trong quá trình khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện chụp ảnh, mô tả đầy đủ dấu vết để lại trên tử thi, tích lũy, bảo quản mẫu vật, phục vụ công việc giám định để xác định nguyên nhân chết hoặc truy tìm tung tích của nạn nhân.

Kiểm sát viên phải ghi chép, mô tả đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các dấu vết để lại trên tử thi để làm cơ sở xem xét, đối chiếu với biên bản khám nghiệm tử thi.

2. Nếu thấy việc khám nghiệm tử thi chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì yêu cầu ghi ý kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.

3. Trường hợp phải khai quật tử thi, Kiểm sát viên phải kiểm sát về trình tự, thủ tục, đảm bảo việc khai quật tử thi để khám nghiệm đúng quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Điều 34. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm tử thi, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có) để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 35. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi

1. Lúc thu được thông báo của Cơ quan dò hỏi về việc thực nghiệm dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo cho Cơ quan dò hỏi biết để ghi vào biên bản thực nghiệm dò hỏi.

Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm dò hỏi, đảm bảo việc dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác thích hợp với thực tiễn khách quan, theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong trường hợp cần thiết nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa tổ chức thực nghiệm dò hỏi, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực hiện thực nghiệm dò hỏi.

2. Viện kiểm sát thực hiện thực nghiệm dò hỏi lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực nghiệm dò hỏi nhưng Cơ quan dò hỏi ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ;

b) Trong thời đoạn truy tố, nhưng mà xét thấy việc thực nghiệm dò hỏi đơn giản, ko cần phải trả hồ sơ để dò hỏi bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện tự mình hoặc phối hợp với Cơ quan dò hỏi tổ chức thực nghiệm dò hỏi.

Việc thực nghiệm dò hỏi và lập biên bản thực nghiệm dò hỏi phải theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

Điều 36. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giám định

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi nhằm đảm bảo nội dung trưng cầu giám định cụ thể, rõ ràng, thích hợp với sự việc và những vấn đề cần yêu cầu kết luận. Trường hợp cần thiết, vụ án, vụ việc cần phải trưng cầu giám định, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thống nhất nội dung trưng cầu giám định trước lúc trưng cầu; lúc có kết luận giám định cần phối hợp rà soát, giám định toàn thể kết quả và lập thành biên bản lưu hồ sơ kiểm sát.

Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để phát hiện các nội dung cần giám định, các trường hợp buộc phải phải trưng cầu giám định quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Tòa án nhân dân vô thượng, Bộ Công an và Bộ Tư pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong khắc phục vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám định để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp Kiểm sát viên tham gia giám định, thì phải thông báo trước cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám định liên quan tới các tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định bổ sung theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần đầu ko chuẩn xác hoặc có sự không giống nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu tổ chức, tư nhân đã thực hiện giám định giảng giải kết luận giám định, hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu phát hiện người giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định thay đổi người giám định.

3. Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trưng cầu giám định lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn khởi tố, Viện kiểm sát trực tiếp khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

b) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định trưng cầu giám định nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện nhưng mà nếu ko giám định thì ko đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

c) Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết.

4. Trường hợp Viện kiểm sát đã trưng cầu giám định nhưng mà thấy cần giám định bổ sung, giám định lại, giám định lại lần thứ hai hoặc cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.

5. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn gửi quyết định trưng cầu giám định, thời hạn giám định và thời hạn gửi kết luận giám định, đảm bảo đúng theo quy định tại các điều 205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 37. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc định giá tài sản

1. Kiểm sát viên chủ động kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu định giá tài sản theo quy định tại các điều 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Sau lúc nhận được văn bản yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, nếu thấy nội dung chưa đầy đủ, rõ ràng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra sửa đổi, bổ sung.

Trường hợp cần định giá tài sản nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu định giá tài sản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.

Nếu phát hiện người định giá tài sản thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá tài sản thay đổi người định giá tài sản.

3. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ kết luận định giá tài sản, bảo đảm kết luận định giá tài sản khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra và đáp ứng được yêu cầu định giá tài sản.

Lúc có căn cứ phải định giá lại tài sản, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi yêu cầu định giá lại tài sản; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng quyết định việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc trưng theo quy định tại Điều 220 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận định giá thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu Hội đồng định giá tài sản giảng giải kết luận định giá, hỏi thêm về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự.

4. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên tham gia phiên họp định giá tài sản nhưng phải thông báo trước cho Hội đồng định giá tài sản. Lúc tham gia phiên họp, Kiểm sát viên có quyền đưa ra ý kiến, nếu được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản.

……………..

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định tại file dưới đây!

Đăng bởi: Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Tổng hợp

Bạn thấy bài viết Quyết định 111/QĐ-VKSTC có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Quyết định 111/QĐ-VKSTC bên dưới để dienchau2.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Văn học
#Quyết #định #111QĐVKSTC

[rule_{ruleNumber}]

[box type=”note” align=”” class=”” border-radius: 5px; -webkit-border-radius: 5px; border: 2px solid #1c4a97; padding: 10px 20px;”>
Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC tại dienchau2.edu.vn

Quyết định 111/QĐ-VKSTC

Mới đây, Viện Kiểm sát Nhân dân tối ca đã đưa ra quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi tố, dò hỏi trong Quyết định 111/QĐ-VKSTC vào ngày 17/04/2020. Hiệu lực của văn bản pháp luật này sẽ có hiệu lực tính từ lúc ngàu được ban hành. Sau đầy, Trường THPT Diễn Châu 2 xin mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định này.

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
——-

Số: 111/QĐ-VKSTC

Bạn đang xem: Quyết định 111/QĐ-VKSTC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2020

QUYẾT ĐỊNH 111/QĐ-VKSTC

VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ

———

VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;

Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Xét yêu cầu của Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án an ninh và Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân vô thượng,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ban hành Quy chế tạm thời công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định.

Điều 3. Thủ trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các ngành chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận:
Như Điều 3;
– Lãnh đạo VKSND vô thượng;
– Lưu: VT, V1, V14.

VIỆN TRƯỞNG




Lê Minh Trí

QUY CHẾ

CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng)

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Quy chế này quy định các hoạt động sau đây:

1. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp thu, khắc phục nguồn tin về tội phạm do người phạm tội tự thú hoặc những thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng trực tiếp phát hiện cũng được thực hiện theo quy định của Quy chế này;

2. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố;

3. Thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi;

4. Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời đoạn truy tố.

Điều 2. Nhân vật vận dụng

1. Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

2. Người có thẩm quyền thực hiện tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các ngành.

3. Cơ quan, tổ chức, tư nhân khác có liên quan tới công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

Điều 3. Mục tiêu công việc

1. Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, dò hỏi và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ko để lọt tội phạm và người phạm tội, ko làm oan người vô tội.

2. Ko để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mệnh, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và phẩm chất một cách trái pháp luật.

3. Việc khởi tố, dò hỏi, truy tố phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chuẩn xác, đúng pháp luật; những vi phi pháp luật trong quá trình khởi tố, dò hỏi, truy tố phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh.

Điều 4. Từ ngữ sử dụng trong Quy chế

1. “Viện kiểm sát” gồm Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự.

2. “Lãnh đạo Viện” gồm Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công hoặc ủy quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố.

3. “Lãnh đạo đơn vị” gồm Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng các vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi thuộc Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử sơ thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự trung ương, Trưởng ban, Phó Trưởng ban đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

4. “Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Cơ quan dò hỏi, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

5. “Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

6. “Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi” gồm Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

7. “Cán bộ dò hỏi” gồm Cán bộ dò hỏi của Cơ quan dò hỏi, Cán bộ dò hỏi của cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi.

Điều 5. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định tại các điều 41, 42, 43, quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật khác có liên quan trong việc khởi tố, dò hỏi, truy tố.

2. Lúc được phân công thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc, Kiểm sát viên, Rà soát viên có trách nhiệm quản lý hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát. Lúc báo cáo đề xuất các vấn đề thuộc công việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,dò hỏi và truy tố với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên, Rà soát viên phải báo cáo trung thực, khách quan, chuẩn xác, đầy đủ nội dung vụ án, vụ việc, tiến độ khắc phục và đề xuất ý kiến xử lý bằng văn bản.

3. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có trách nhiệm quản lý, lãnh đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố; xem xét, quyết định các vấn đề liên quan tới việc khắc phục vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật, Quy chế này và các quy định khác có liên quan.

Sau lúc nghe Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất khắc phục vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ghi rõ ý kiến lãnh đạo vào văn bản đề xuất của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết thì trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, rà soát chứng cứ trong hồ sơ hoặc trực tiếp thực hiện một số hoạt động khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, hoạt động dò hỏi trước lúc cho ý kiến lãnh đạo. Văn bản đề xuất phải ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trong quá trình khắc phục vụ án, vụ việc, nếu có ý kiến không giống nhau giữa các Kiểm sát viên hoặc giữa Kiểm sát viên với Phó Viện trưởng, Viện trưởng thì thực hiện theo quy định tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trường hợp có ý kiến không giống nhau giữa Kiểm sát viên thụ lý chính với lãnh đạo đơn vị thì phải thực hiện ý kiến của lãnh đạo đơn vị, nhưng có quyền báo cáo với Phó Viện trưởng phụ trách; nếu có ý kiến không giống nhau giữa lãnh đạo đơn vị với Phó Viện trưởng thì phải thực hiện ý kiến của Phó Viện trưởng, nhưng có quyền báo cáo với Viện trưởng. Kết luận của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được ghi vào báo cáo của đơn vị và lưu hồ sơ kiểm sát.

Trường hợp vụ án, vụ việc phức tạp, có khó khăn, vướng mắc trong quá trình khắc phục, Viện trưởng có thể đưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Ủy ban kiểm sát thảo luận trước lúc kết luận. Đối với vụ án, vụ việc Viện kiểm sát cấp dưới thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị thực hiện theo quy định của Ngành.

4. Lúc phát hiện có sơ sót về nghiệp vụ hoặc vi phi pháp luật thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải có giải pháp khắc phục ngay và tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xử lý trách nhiệm người vi phạm theo quy định của pháp luật.

Điều 6. Việc ban hành văn bản tố tụng của Viện kiểm sát trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố

1. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên ban hành văn bản tố tụng trong các thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình.

3. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân công phụ trách lĩnh vực công việc hoặc ủy quyền có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình trừ văn bản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và văn bản về khắc phục khiếu nại, tố cáo đối với hành vi, quyết định của mình.

4. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố có quyền ký các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với vụ án, vụ việc phức tạp, có ý kiến không giống nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng hoặc trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất xin ý kiến lãnh đạo của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ký văn bản tố tụng.

5. Sau lúc quyết định việc ban hành các văn bản tố tụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng hoặc Kiểm sát viên cao cấp là Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát dò hỏi án hình sự ký thừa lệnh đối với văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của mình, trừ văn bản quy định tại các điểm b, d và đ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và Cáo trạng. Trường hợp đặc trưng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng có thể phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ký Cáo trạng.

Trường hợp Vụ trưởng vắng mặt nhưng mà phát sinh văn bản cần ký ngay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng xem xét, quyết định phân công Kiểm sát viên cao cấp là Phó Vụ trưởng được giao phụ trách việc khắc phục vụ án, vụ việc ký quyết định tố tụng đối với vụ án, vụ việc đó.

Các văn bản tố tụng Kiểm sát viên được phân công ký thừa lệnh Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng thực hiện theo Phụ lục A ban hành kèm theo Quy chế này. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng về việc ký các văn bản được phân công; sau lúc ký văn bản, Kiểm sát viên phải gửi cho lãnh đạo Viện để theo dõi, lãnh đạo. Lúc ký các văn bản tố tụng được phân công, Kiểm sát viên phải ghi thừa lệnh Viện trưởng, cụ thể như sau:

TL.VIỆN TRƯỞNG

KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

(hoặc KIỂM SÁT VIÊN CAO CẤP)

Chữ ký

(Ghi rõ họ và tên)

Điều 7. Phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được thông báo bằng văn bản về việc tiếp thu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khắc phục vụ án, vụ việc. Tùy theo tính chất của vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có thể phân công một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng khắc phục vụ án, vụ việc.

Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án, vụ việc thì Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản thông báo gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

2. Trường hợp vụ án, vụ việc có nhiều Kiểm sát viên, Rà soát viên cùng tham gia khắc phục thì trong quyết định phân công phải ghi rõ phân công Kiểm sát viên thụ lý chính. Tại Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên cao cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên trung cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên sơ cấp trở lên.

Kiểm sát viên thụ lý chính có trách nhiệm xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi, truy tố, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng Kiểm sát viên, Rà soát viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về việc khắc phục vụ án, vụ việc.

3. Trường hợp vụ án, vụ việc có cả Kiểm sát viên và Rà soát viên tham gia khắc phục thì Rà soát viên giúp việc cho Kiểm sát viên và tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên. Các Kiểm sát viên, Rà soát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công và chịu sự lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên thụ lý chính. Kiểm sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, lãnh đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn.

Điều 8. Thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát

1. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được kiến nghị của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc yêu cầu của người tham gia tố tụng về việc xem xét thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy có căn cứ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên, Rà soát viên; nếu thấy ko có căn cứ thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do.

Nếu Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện trưởng phân công Phó Viện trưởng khác hoặc Viện trưởng trực tiếp thực hiện tố tụng đối với vụ án; đồng thời, thông báo bằng văn bản việc thay đổi đó cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi).

Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định phân công một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nơi Viện trưởng bị thay đổi thực hiện tố tụng đối với vụ án và thông báo bằng văn bản cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi); trường hợp Viện trưởng và Phó Viện trưởng đều thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện kiểm sát, Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thống nhất báo cáo Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp rút vụ án để dò hỏi.

3. Quyết định thay đổi và phân công Kiểm sát viên, Rà soát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát quy định tại Điều này phải gửi cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đang thụ lý vụ án, đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ kiểm sát.

Điều 9. Yêu cầu thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi; Thủ trưởng, Cấp trưởng, Phó Thủ trưởng, Cấp phó của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi

1. Lúc thấy Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thuộc một trong những trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 49 và Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên trao đổi ngay để Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi từ chối thực hiện tố tụng, nếu ko từ chối thì Kiểm sát viên có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xem xét, thay đổi Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi.

Trường hợp Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thay đổi.

2. Nếu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thuộc trường hợp phải từ chối thực hiện tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện thủ tục yêu cầu Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định chuyển vụ án tới Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi cấp trên trực tiếp để thực hiện dò hỏi. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có văn bản yêu cầu thì Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án. Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo bằng văn bản về việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi vụ án.

Điều 10. Kiểm sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự

1. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ hành vi, tài liệu tố tụng, đảm bảo nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp tài liệu tố tụng ko trình bày bằng tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng ko sử dụng được tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng có khuyết tật nghe, nói, nhìn thì Kiểm sát viên chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi yêu cầu cử người dịch thuật, người thông dịch tham gia tố tụng.

Việc thông dịch phải lập biên bản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 11. Kiểm sát việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng

1. Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền dò hỏi trong việc thông báo, giao, gửi, cấp, chuyển, niêm yết tài liệu, văn bản tố tụng và việc giảng giải, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc thông báo, giảng giải phải được ghi vào biên bản.

2. Lúc kiểm sát việc đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị kết tội, Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau:

a) Kiểm sát chặt chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ; việc thông báo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc người đại diện hoặc người thân thích của họ đã có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa theo đúng quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự; việc đảm bảo quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Trường hợp người bị kết tội thuộc diện được chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu hoặc yêu cầu các tổ chức có liên quan cử người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Người bị kết tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa. Việc thay đổi người bào chữa do cơ quan đã yêu cầu hoặc yêu cầu chỉ định người bào chữa xem xét, khắc phục; việc từ chối người bào chữa phải được lập biên bản và người có thẩm quyền thực hiện tố tụng kết thúc việc chỉ định người bào chữa.

3. Trong thời đoạn truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm tiếp thu, xử lý đơn yêu cầu bào chữa của bị can, người đại diện hoặc người thân thích của bị can; đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện thực hiện các thủ tục chỉ định người bào chữa cho bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Lúc người bào chữa đăng ký bào chữa, Kiểm sát viên có trách nhiệm rà soát các giấy tờ người bào chữa xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự, rà soát điều kiện ko được tham gia bào chữa của người bào chữa theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ lúc nhận đủ giấy tờ, nếu đủ điều kiện, Kiểm sát viên vào sổ đăng ký bào chữa và ra văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ; trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.

Trường hợp bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa có yêu cầu đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan tới việc kết tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan tới việc bào chữa thì Kiểm sát viên xếp đặt thời kì, vị trí và kiểm sát chặt chẽ bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương nghiệp phạm tội, người bào chữa thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật.

Điều 12. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc và giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi

1. Trong quá trình rà soát, xác minh, khởi tố, dò hỏi và truy tố, tài liệu của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hoặc của Viện kiểm sát tích lũy đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc theo đúng trình tự tố tụng.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, đảm bảo tài liệu trong hồ sơ phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Viện kiểm sát kèm theo bản thống kê tài liệu theo quy định của pháp luật.

Lúc thu được tài liệu liên quan tới vụ án, vụ việc do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi chuyển tới, Kiểm sát viên phải rà soát tính hợp pháp của tài liệu đó. Trường hợp phát hiện tài liệu tích lũy ko đúng quy định của pháp luật hoặc ko có trị giá chứng minh thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Việc giao, nhận, thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án trong thời đoạn dò hỏi, truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật và Điều 66 của Quy chế này.

2. Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người tham gia tố tụng giữ bí mật rà soát, xác minh, bí mật dò hỏi; nếu phát hiện vi phạm thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Phát hiện và xử lý vi phạm

1. Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án, vụ việc phải kịp thời phát hiện, theo dõi, tổng hợp vi phi pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi xử lý nghiêm minh Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi vi phi pháp luật lúc thực hiện hoạt động rà soát, xác minh, dò hỏi. Nếu vi phạm của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi có tín hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi khởi tố vụ án hình sự; nếu có tín hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung ương để lãnh đạo Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Cơ quan dò hỏi Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, khắc phục theo thẩm quyền.

Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, thì lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định thay đổi, hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Đối với lệnh, quyết định ko có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Đối với lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi đã được Viện kiểm sát phê duyệt nhưng mà phát hiện ko có căn cứ và trái pháp luật thì lãnh đạo Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.

Trường hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để thực hiện.

2. Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, dò hỏi và truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm yêu cầu, tổng hợp các vi phi pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người có thẩm quyền thực hiện tố tụng, người tham gia tố tụng và những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội của cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản kiến nghị yêu cầu khắc phục và vận dụng các giải pháp phòng ngừa tội phạm, vi phi pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 160, khoản 6, khoản 8 Điều 166 và khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 14. Xử lý, kiến nghị xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự

1. Người bị kết tội, người tham gia tố tụng khác có một trong các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự quy định tại Điều 466 Bộ luật Tố tụng hình sự thì tùy từng hành vi, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục theo thẩm quyền hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.

2. Hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Chương II

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ

Điều 15. Xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp

1. Ngay sau lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên phải thực hiện các hoạt động sau đây:

a) Rà soát hồ sơ, đảm bảo đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp ko đủ tài liệu, chứng cứ thì yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung;

b) Xác định thẩm quyền, căn cứ của việc giữ người trong trường hợp nguy cấp theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, thấy có tín hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc chưa đủ căn cứ để giữ người trong trường hợp nguy cấp hoặc người bị giữ ko nhận tội, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có tranh chấp, người bị giữ là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, là thân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi người bị giữ trước lúc báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc phê duyệt. Lúc cần hỏi người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, Kiểm sát viên thông báo trước cho Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để phối hợp trong quá trình hỏi. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ do Kiểm sát viên lập phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự và theo Mẫu do Viện kiểm sát nhân dân vô thượng ban hành, được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát.

2. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu xét phê duyệt lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, lãnh đạo Viện phải quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt; thời hạn này được tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc.

Điều 16. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm giữ

1. Ngay sau lúc thu được quyết định tạm giữ, hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, Kiểm sát viên thực hiện rà soát tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Nếu thấy việc tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 4 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết, thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ lúc thu được hồ sơ yêu cầu phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ ko có căn cứ hoặc ko cần thiết thì ra quyết định ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Viện kiểm sát đã phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng ko phê duyệt quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ hai thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do.

2. Hằng ngày, Viện kiểm sát phải kiểm sát số người bị bắt, bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ, số người chuyển tạm giam, số người được trả tự do hoặc vận dụng giải pháp ngăn chặn khác, số người Viện kiểm sát ko phê duyệt việc bắt người bị giữ trong trường hợp nguy cấp, ko phê duyệt gia hạn tạm giữ, số người bị bắt, bị tạm giữ nhưng ko xử lý hình sự; phát hiện, tổng hợp vi phạm của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Hằng tuần, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 17. Xét phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, quyết định vận dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ giải pháp tạm giam

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, văn bản yêu cầu xét phê duyệt và hồ sơ liên quan tới việc tạm giam, Kiểm sát viên rà soát tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại các điều 113, 119 và 173 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định thẩm quyền, nhân vật, căn cứ, điều kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối với từng bị can; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt và trả hồ sơ cho cơ quan yêu cầu phê duyệt ngay sau lúc kết thúc việc xét phê duyệt. Đối với trường hợp bị can bị bắt tạm giam sau lúc đã khởi tố vụ án thì thời hạn tạm giam ko được quá thời hạn dò hỏi vụ án.

Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu phê duyệt bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ xem xét, quyết định việc phê duyệt. Trong trường hợp này, thời hạn xét phê duyệt là 03 ngày, kể từ lúc Viện kiểm sát thu được tài liệu, chứng cứ bổ sung.

Kiểm sát viên phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu làm căn cứ xét phê duyệt và trả hồ sơ cho Cơ quan dò hỏi ngay sau lúc kết thúc việc phê duyệt.

2. Nếu thấy đủ căn cứ để tạm giam bị can theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự và cần thiết phải tạm giam bị can, nhưng Cơ quan dò hỏi ko ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, thì Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam và chuyển cho Cơ quan dò hỏi để thực hiện.

3. Sau lúc phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý khắc phục vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm giam bị can để kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, trường hợp còn thời hạn tạm giam nhưng xét thấy giải pháp tạm giam đối với bị can ko còn cần thiết thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giam hoặc thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác;

b) Trước lúc hết thời hạn tạm giam 10 ngày, nếu Cơ quan dò hỏi chưa có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát gia hạn tạm giam bị can thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan dò hỏi ra văn bản yêu cầu gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

Chậm nhất 05 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định gia hạn tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ giải pháp tạm giam.

4. Viện kiểm sát phải nắm chắc số liệu tạm giam; theo dõi, quản lý chặt chẽ các trường hợp ko phê duyệt lệnh bắt bị can để tạm giam, ko phê duyệt lệnh tạm giam, ko gia hạn tạm giam, quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp tạm giam, các trường hợp tạm giam nhưng đình chỉ dò hỏi do bị can ko phạm tội hoặc Tòa án tuyên ko phạm tội để báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện. Hằng tháng, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng văn bản.

Điều 18. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo

1. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ lúc thu được quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo, yêu cầu xét phê duyệt và tài liệu khác có liên quan về việc bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo theo quy định tại Điều 121 hoặc Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 07/8/2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng và Tòa án nhân dân vô thượng quy định cụ thể trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, trưng thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để đảm bảo, báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê duyệt hoặc ko phê duyệt quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc đặt tiền để đảm bảo.

Trường hợp bị can đã được vận dụng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo nhưng vi phạm nghĩa vụ thì Viện kiểm sát quyết định vận dụng giải pháp tạm giam đối với bị can.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ thay thế giải pháp tạm giam bằng giải pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để đảm bảo thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định.

Điều 19. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ

1. Sau lúc phê duyệt quyết định khởi tố bị can, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và việc thông báo về việc vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi. Nếu phát hiện lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh đó. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi.

Trường hợp phát hiện bị can vi phạm việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ đối với bị can theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp nếu bị can đã được quyết định vận dụng giải pháp cấm đi khỏi nơi trú ngụ nhưng vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi trú ngụ và ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

Điều 20. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm hoãn xuất cảnh

1. Ngay sau lúc thu được thông báo về việc quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh. Trường hợp xét thấy quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại Điều 41 và khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu có căn cứ xác định việc bị can có tín hiệu bỏ trốn ra nước ngoài nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh và gửi ngay cho Cơ quan dò hỏi, Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với những người quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh ko được quá thời hạn quyết định việc truy tố.

Điều 21. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Lúc xem xét các trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện khắc phục như sau:

a) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko do Viện kiểm sát phê duyệt; nếu xét thấy ko còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng giải pháp ngăn chặn khác nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế nhưng Viện kiểm sát thấy việc hủy bỏ hoặc thay thế đó ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi hủy bỏ; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;

b) Đối với quyết định vận dụng giải pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê duyệt hoặc ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trường hợp chưa hết thời hạn gia hạn tạm giữ nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và xét thấy ko cần thiết tạm giữ thì căn cứ khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ giải pháp tạm giữ; nếu cần thiết phải vận dụng giải pháp ngăn chặn khác thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện, nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát thực hiện.

Điều 22. Gia hạn tạm giam để dò hỏi

1. Việc gia hạn tạm giam và thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát các ngành được thực hiện theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm giam theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vụ án đang do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu thực hành quyền công tố, kiểm sát dò hỏi, thì trên cơ sở yêu cầu gia hạn tạm giam của Cơ quan dò hỏi cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phải chuyển hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, nêu rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lý do yêu cầu gia hạn tới Viện kiểm sát nhân dân vô thượng chậm nhất 10 ngày, trước lúc hết thời hạn tạm giam. Chậm nhất 05 ngày, kể từ lúc thu được hồ sơ vụ án kèm theo văn bản yêu cầu gia hạn, Viện kiểm sát nhân dân vô thượng phải quyết định gia hạn hoặc ko gia hạn tạm giam; nếu ko gia hạn tạm giam thì phải có văn bản nêu rõ lý do và trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã yêu cầu.

Điều 23. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải

1. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi và truy tố, nếu xét thấy cần thiết phải vận dụng giải pháp dẫn giải, dẫn giải các nhân vật quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước lúc ra quyết định dẫn giải, dẫn giải.

2. Lúc kiểm sát việc dẫn giải, dẫn giải của Khảo sát viên, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động dò hỏi, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị dẫn giải, dẫn giải; điều kiện vận dụng, thẩm quyền; nội dung quyết định, trình tự thi hành; cơ quan có trách nhiệm thi hành quyết định dẫn giải, quyết định dẫn giải. Nếu phát hiện vi phạm phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm và kiểm sát việc khắc phục vi phạm.

Điều 24. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Sau lúc thu được lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ nhân vật bị vận dụng, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản; nội dung biên bản kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa vận dụng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi vận dụng; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản và yêu cầu Cơ quan dò hỏi tổ chức, triển khai thực hiện.

Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản ko có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ lệnh đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

2. Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết định việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, đồng thời yêu cầu Cơ quan dò hỏi phối hợp thực hiện.

Điều 25. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ từng trường hợp, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Trường hợp có đủ căn cứ hủy bỏ giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ra quyết định hủy bỏ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ.

Trường hợp xét thấy ko còn cần thiết vận dụng hoặc có thể thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan dò hỏi bằng giải pháp khác theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng mà Cơ quan dò hỏi ko ban hành quyết định hủy bỏ hoặc thay thế, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Trường hợp Cơ quan dò hỏi ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng xét thấy quyết định hủy bỏ hoặc thay thế của Cơ quan dò hỏi ko có căn cứ và trái pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi hủy bỏ quyết định đó; nếu Cơ quan dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.

3. Trong thời đoạn khởi tố, dò hỏi, quyết định vận dụng giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản do Viện kiểm sát ban hành thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.

Trong thời đoạn truy tố, Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ hoặc thay thế giải pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản lúc có đủ căn cứ quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chương III

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN

Điều 26. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên lúc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi hoặc những người biết về vụ việc phân phối các thông tin liên quan tới vụ việc cần khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

2. Kiểm sát viên phải kiểm sát thành phần thực hiện, tham gia việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi đảm bảo đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

3. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có liên quan tới vụ việc khám nghiệm; lập biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ và các hoạt động khác theo đúng quy định của pháp luật.

4. Kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định, kịp thời đề ra các yêu cầu cho Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y tích lũy, làm rõ các dấu vết thương tích, phẫu thuật tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công việc truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án ko quả tang.

5. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y xác định chuẩn xác phạm vi hiện trường, bao gồm cả hiện trường chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án, hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và phương tiện, phương tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, tích lũy đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan tới tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Kiểm sát viên có thể thu thanh hoặc ghi hình có âm thanh việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để phục vụ cho công việc kiểm sát.

6. Rà soát, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và các tài liệu liên quan khác so với thực tiễn hiện trường, diễn biến quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi để đảm bảo chuẩn xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.

7. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi phải có mặt từ lúc mở màn tới lúc kết thúc, ký tên vào sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực nghiệm dò hỏi.

8. Mọi trường hợp Kiểm sát viên ko trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi thì ko được ký vào các loại biên bản trên.

Điều 27. Tiếp thu, xử lý và khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi

1. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp thu, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi do cơ quan, tổ chức, tư nhân chuyển tới. Kiểm sát viên phải ghi vào sổ thụ lý; ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm tiếp thu; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, tư nhân phân phối; kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan dò hỏi có thẩm quyền khắc phục. Nếu là thông tin do Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi phân phối, Kiểm sát viên được phân công trực phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trong ca trực để kịp thời phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Kiểm sát viên, Rà soát viên phải giữ bí mật thông tin của tư nhân đã phân phối tố giác, tin báo có liên quan tới khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.

2. Lúc thu được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối với tất cả các vụ việc nhưng mà Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi thực hiện khám nghiệm theo quy định của pháp luật.

Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ án giết mổ người ko quả tang, các vụ tai nạn giao thông, các vụ tai nạn lao động gây hậu quả đặc trưng nghiêm trọng, vụ việc có từ 02 tử thi trở lên; các vụ án nhưng mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức hoặc các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã hội đặc trưng quan tâm hoặc các trường hợp khác lúc xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới yêu cầu Viện kiểm sát cấp trên phân công Kiểm sát viên cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

Điều 28. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm dò hỏi và giám định

1. Thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền khắc phục các vụ án hình sự và theo lãnh thổ. Các vụ án giết mổ người, nghi giết mổ người; các vụ tai nạn lao động, tai nạn giao thông; các vụ cháy, nổ đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có liên quan tới yếu tố nước ngoài; các vụ việc đặc trưng nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan dò hỏi cấp tỉnh, Cơ quan dò hỏi quân sự cấp quân khu thực hiện khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.

2. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, lúc có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có dấu vết tội phạm có trách nhiệm phân công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

Điều 29. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm hiện trường

Trước lúc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thông báo nội dung, diễn biến thuở đầu của sự việc xảy ra, công việc bảo vệ hiện trường, để tham gia ý kiến vào việc sẵn sàng khám nghiệm, phương pháp khám nghiệm, chủ động yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện khám nghiệm hiện trường, rà soát đầy đủ thành phần trước lúc thực hiện khám nghiệm đảm bảo đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 30. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường

1. Kiểm sát viên phải phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự, phương pháp khám nghiệm hiện trường, đảm bảo khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Kiểm sát việc lấy lời khai những người biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc nhân vật có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi lấy ngay lời khai và thu thanh lời khai của họ.

2. Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường phân phối; hoặc tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để giám định tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi đó do các yếu tố con người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được xem xét, thu giữ để yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thực hiện.

3. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường và thực hiện các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.

Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, rà soát với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan tới tội phạm, lấy lời khai và thu thanh lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc,các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

4. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu khám nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật tạo nên dấu vết để có thể phát hiện, xác định được loại dấu vết; dấu vết tạo nên đúng hay trái với quy luật thông thường, sự tranh chấp giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời yêu cầu tích lũy đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng các dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay ko việc tạo hiện trường giả sau lúc gây án.

5. Kiểm sát viên phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn phân tích, giám định các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết dò hỏi, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chuẩn xác, phục vụ công việc truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội.

Nếu thấy việc khám nghiệm hiện trường chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xin ý kiến lãnh đạo; yêu cầu Khảo sát viên ghi ý kiến của mình vào biên bản khám nghiệm.

6. Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, đảm bảo phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ khắc phục vụ án.

7. Kiểm sát viên phải có trách nhiệm phối hợp cùng Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi phân tích, giám định đúng kết quả khám nghiệm hiện trường; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Trường vừa ý kiến giữa Kiểm sát viên và Khảo sát viên ko thống nhất thì Kiểm sát viên yêu cầu ghi ý kiến của mình vào biên bản và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện sau lúc kết thúc khám nghiệm.

8. Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi quán triệt những người tham gia khám nghiệm hiện trường giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối ko được tiết lộ, gây khó khăn cho công việc dò hỏi, khắc phục vụ án.

Điều 31. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến xử lý với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm hiện trường, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 32. Hoạt động của Kiểm sát viên trước lúc khám nghiệm tử thi

Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với Khảo sát viên để thống nhất nội dung, kế hoạch khám nghiệm tử thi. Trước lúc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên thông báo tóm tắt nội dung vụ việc, thành phần thực hiện, tham gia khám nghiệm, thời kì, vị trí thực hiện khám nghiệm.

Điều 33. Hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm tử thi

1. Trong quá trình khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện chụp ảnh, mô tả đầy đủ dấu vết để lại trên tử thi, tích lũy, bảo quản mẫu vật, phục vụ công việc giám định để xác định nguyên nhân chết hoặc truy tìm tung tích của nạn nhân.

Kiểm sát viên phải ghi chép, mô tả đầy đủ, chuẩn xác, rõ ràng, cụ thể các dấu vết để lại trên tử thi để làm cơ sở xem xét, đối chiếu với biên bản khám nghiệm tử thi.

2. Nếu thấy việc khám nghiệm tử thi chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên yêu cầu Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự bổ sung, khắc phục; trường hợp ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ thì yêu cầu ghi ý kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.

3. Trường hợp phải khai quật tử thi, Kiểm sát viên phải kiểm sát về trình tự, thủ tục, đảm bảo việc khai quật tử thi để khám nghiệm đúng quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Điều 34. Hoạt động của Kiểm sát viên sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi

Sau lúc kết thúc việc khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất ý kiến với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm tử thi, những yêu cầu của Kiểm sát viên ko được Khảo sát viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ (nếu có) để có ý kiến lãnh đạo.

Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo cáo thuở đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của Ngành.

Điều 35. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi

1. Lúc thu được thông báo của Cơ quan dò hỏi về việc thực nghiệm dò hỏi, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm dò hỏi. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo cho Cơ quan dò hỏi biết để ghi vào biên bản thực nghiệm dò hỏi.

Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm dò hỏi, đảm bảo việc dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác thích hợp với thực tiễn khách quan, theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong trường hợp cần thiết nhưng mà Cơ quan dò hỏi chưa tổ chức thực nghiệm dò hỏi, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực hiện thực nghiệm dò hỏi.

2. Viện kiểm sát thực hiện thực nghiệm dò hỏi lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan dò hỏi thực nghiệm dò hỏi nhưng Cơ quan dò hỏi ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ;

b) Trong thời đoạn truy tố, nhưng mà xét thấy việc thực nghiệm dò hỏi đơn giản, ko cần phải trả hồ sơ để dò hỏi bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện tự mình hoặc phối hợp với Cơ quan dò hỏi tổ chức thực nghiệm dò hỏi.

Việc thực nghiệm dò hỏi và lập biên bản thực nghiệm dò hỏi phải theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng.

Điều 36. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giám định

1. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi nhằm đảm bảo nội dung trưng cầu giám định cụ thể, rõ ràng, thích hợp với sự việc và những vấn đề cần yêu cầu kết luận. Trường hợp cần thiết, vụ án, vụ việc cần phải trưng cầu giám định, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Khảo sát viên, Cán bộ dò hỏi thống nhất nội dung trưng cầu giám định trước lúc trưng cầu; lúc có kết luận giám định cần phối hợp rà soát, giám định toàn thể kết quả và lập thành biên bản lưu hồ sơ kiểm sát.

Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để phát hiện các nội dung cần giám định, các trường hợp buộc phải phải trưng cầu giám định quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân vô thượng, Tòa án nhân dân vô thượng, Bộ Công an và Bộ Tư pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong khắc phục vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám định để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp Kiểm sát viên tham gia giám định, thì phải thông báo trước cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám định liên quan tới các tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định bổ sung theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần đầu ko chuẩn xác hoặc có sự không giống nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu tổ chức, tư nhân đã thực hiện giám định giảng giải kết luận giám định, hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu phát hiện người giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi trưng cầu giám định thay đổi người giám định.

3. Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trưng cầu giám định lúc thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trong thời đoạn khởi tố, Viện kiểm sát trực tiếp khắc phục tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

b) Trong thời đoạn dò hỏi, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra quyết định trưng cầu giám định nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện nhưng mà nếu ko giám định thì ko đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

c) Trong thời đoạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết.

4. Trường hợp Viện kiểm sát đã trưng cầu giám định nhưng mà thấy cần giám định bổ sung, giám định lại, giám định lại lần thứ hai hoặc cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.

5. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn gửi quyết định trưng cầu giám định, thời hạn giám định và thời hạn gửi kết luận giám định, đảm bảo đúng theo quy định tại các điều 205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 37. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc định giá tài sản

1. Kiểm sát viên chủ động kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu định giá tài sản theo quy định tại các điều 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Sau lúc nhận được văn bản yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi, nếu thấy nội dung chưa đầy đủ, rõ ràng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra sửa đổi, bổ sung.

Trường hợp cần định giá tài sản nhưng Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko yêu cầu định giá tài sản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.

Nếu phát hiện người định giá tài sản thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 5 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá tài sản thay đổi người định giá tài sản.

3. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ kết luận định giá tài sản, bảo đảm kết luận định giá tài sản khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra và đáp ứng được yêu cầu định giá tài sản.

Lúc có căn cứ phải định giá lại tài sản, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi yêu cầu định giá lại tài sản; nếu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi ko thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vô thượng quyết định việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc trưng theo quy định tại Điều 220 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết luận định giá thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền dò hỏi để yêu cầu Hội đồng định giá tài sản giảng giải kết luận định giá, hỏi thêm về những tình tiết cần thiết theo quy định tại Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự.

4. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên tham gia phiên họp định giá tài sản nhưng phải thông báo trước cho Hội đồng định giá tài sản. Lúc tham gia phiên họp, Kiểm sát viên có quyền đưa ra ý kiến, nếu được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản.

……………..

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung cụ thể của quyết định tại file dưới đây!

Đăng bởi: Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Tổng hợp

Bạn thấy bài viết Quyết định 111/QĐ-VKSTC có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Quyết định 111/QĐ-VKSTC bên dưới để dienchau2.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Diễn Châu 2

Phân mục: Văn học
#Quyết #định #111QĐVKSTC

[/box]

#Quyết #định #111QĐVKSTC

[/toggle]

Bạn thấy bài viết Quyết định 111/QĐ-VKSTC có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Quyết định 111/QĐ-VKSTC bên dưới để dienchau2.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Diễn Châu 2

Nhớ để nguồn: Quyết định 111/QĐ-VKSTC tại Kiến thức chung

Viết một bình luận